Thứ Sáu, 1 tháng 10, 2010

Chiếu dời đô - một áng thơ bất hủ


Theo nhà nghiên cứu Tạ Ngọc Liễn, cụ Bùi Huy Bích (1744-1818) đã chọn Chiếu dời đô vào công trình Hoàng Việt văn tuyển, là tuyển văn thơ cổ của nước ta. Giàu hình tượng, có trí tưởng tượng phong phú và tính dự báo rất xa... đây quả là một áng thơ bất hủ.

Lý Công Uẩn, người khai sáng vương triều Lý (1010-1225), khai sinh Thủ đô Thăng Long - HàNội, sinh ra và được nuôi dưỡng, giáo dục nơi cửa chùa. Năm 1009, Lê Ngọa Triều (Lê Long Đĩnh) của nhà Tiền Lê mất, Lý Công Uẩn được giới tăng sĩ và quần thần tôn lên làm vua một cách êm thấm và kịp thời, lấy niên hiệu là Thuận Thiên (nghĩa là “theo ý trời”), miếu hiệu là Lý Thái Tổ.

Chưa đầy một năm sau (năm 1010) ông đã ban Thiên Đô Chiếu (Chiếu dời đô) từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La, đổi tên thành Thăng Long. Đó là quyết định có ý nghĩa lịch sử trọng đại nhất của Lý Công Uẩn thể hiện một trí tuệ việt trác, thiên tài, một tầm nhìn xa vượt ngàn năm, một tấm lòng lo toan cho con cháu nước Việt muôn đời. Đây cũng là một quyết sách của một vị hoàng đế mà hơn 10 thế kỉ sau vẫn còn sức trường tồn hẳn là quyết sách của trời vậy!

Về văn chương, Chiếu dời đô là áng văn lớn, giàu hình tượng, có trí tưởng tượng phong phú và cótính dự báo rất xa: “Huống chi thành Đại La ở khu vực giữa trời đất, có được thế đất rồng cuộn, hổ ngồi; chính vị đông, tây, nam, bắc; tiện nghi phía trước là sông, phía sau là núi. Khu vực ấy rộng rãi, bằng phẳng; đất ở đấy cao ráo, sáng sủa, dân cư không bị ngập chìm tối tăm khổ sở, muôn vật thịnh vượng, tốt tươi…”. Không có trí tưởng tượng phong phú làm sao có được hình tượng giữa trời đất… rồng cuộn, hổ ngồi? Còn tính dự báo thì hẳn ai đọc Chiếu dời đô cũng biết, chođến bây giờ Thủ đô của nước Việt Nam thế kỉ 21 vẫn là Thăng Long nghìn năm trước của Lý Công Uẩn.

Nhà văn Gia Dũng, khi biên soạn tập tuyển thơ Ngàn năm thương nhớ rất công phu, dày hơn 2.000 trang đã xếp Chiếu dời đô là bài thơ đầu tiên của tuyển. Lý do các học giả lại coi Chiếu dờiđô là một áng thơ vì đó là bài thơ văn xuôi truyền được sự xúc động của Lý Công Uẩn tới người đọc nghìn năm sau về một hình tượng thơ lớn là Thăng Long “rồng cuộn, hổ ngồi” rất ám ảnh. Chính từ hình tượng thơ trong Chiếu dời đô đó mà Lý Công Uẩn đã đổi tên Đại La thành Thăng Long chăng?

Về mặt triết học mà Lý Công Uẩn dựa vào để lý giải việc dời đô là “Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi”. Mệnh trời là cái tất yếu, không thể cưỡng lại. Còn ý của dân là chỗ dựa bền vững nhất của mọi triều đại. Cái gì dân không theo thì đừng làm. “Nâng thuyền cũng là dân. Lật thuyền cũng là dân” (Nguyễn Trãi).

Về mặt địa lí, những năm làm quan dưới triều Nhà Đinh và Tiền Lê, Lý Công Uẩn đã thấy việcđóng đô ở Hoa Lư chỉ với mục đích phòng thủ, cố thủ, song không có lợi cho việc xây dựng và phát triển vương triều cũng như đất nước lâu dài. Nhất định trước khi lên ngôi vua, Lý Công Uẩn với sựgiúp đỡ của sư Vạn Hạnh, sư anh Lý Khánh Vân và tướng Đào Cam Mộc (người Thanh Hóa) đã đi thị sát Đại La nhiều lần đã phát hiện ra mạch đất nơi đây là huyệt đất “đế vương” muôn đời: “Ngắm xem khắp nước Việt, thấy đây là vùng đất có phong cảnh tốt đẹp nhất, thực là nơi trọng yếu cho bốn phương hội tụ; là đất Thượng đô của Thượng đô muôn đời”, nên ông quyết tâm dờiđô ra đó. Và quyết định đó là chính xác tuyệt vời.

Về chính trị và kinh tế, sau khi dời đô, triều Lý phát triển rất hưng thịnh. Vương triều Lý do LýCông Uẩn khai sáng tồn tại 215 năm, 8 đời vua, là một triều đại lớn trong lịch sử đất nước với những ông vua anh hùng, có công khai sáng văn hiến dân tộc, như: Lý Thánh Tông (1054-1072), Lý Nhân Tông (1072-1128); với những nhà quân sự, chính trị kiệt xuất như: Lý Thường Kiệt, TôHiến Thành… Triều Lý phát triển mạnh về kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao: Xây dựng kinhđô, thành quách khang trang; xây dựng các công trình thủy lợi, đê điều, phát triển nghề dệt, nghềgốm… đạt tới đỉnh cao. Vân Đồn trở thành thương cảng quốc tế có nhiều tàu buôn nước ngoài vàoăn hàng tấp nập. Triều Lý mở Quốc Tử Giám, lập chế độ đại học, mở khoa thi chọn nhân tài… Với một đường lối đối ngoại vừa khôn khéo, vừa cứng rắn, vương triều Lý đã được nhà Tống phương Bắc nể trọng, lãnh thổ đất nước được bảo vệ vững chắc, toàn vẹn.

Thăng Long - Hà Nội, thế đất “rồng cuộn, hổ ngồi” ấy dẫu có thời gian không phải là kinh đô Đại Việt (như giai đoạn Tây Sơn rồi triều Nguyễn 157 năm kinh đô ở Huế) có lúc bị ngoại bang chiếmđóng, vẫn luôn đỏ chói trong trái tim người Việt. Bởi vậy, từ thuở theo chúa Nguyễn Hoàng mở cõi phương Nam, trong trái tim những người chiến binh luôn luôn đau đáu nỗi nhớ Thăng Long-HàNội: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi /Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ)…

Theo Nhà thơ Ngô Minh (Báo Quân Đội Nhân Dân)

NGUYÊN VĂN "CHIẾU DỜI ĐÔ"

Bản chữ Hán:
昔商家至盤庚五遷。周室迨成王三徙。豈三代之數君徇于己私。妄自遷徙。以其圖大宅中。爲億万世子孫之計。上謹天命。下因民志。苟有便輒改。故國祚延長。風俗富阜。而丁黎二家。乃徇己私。忽天命。罔蹈商周之迹。常安厥邑于茲。致世代弗長。算數短促。百姓耗損。万物失宜。朕甚痛之。不得不徙。
况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困。万物極繁阜之丰。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要会。爲万世帝王之上都。
朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。

Bản phiên âm Hán-Việt:
Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.
Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.
Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?

Bản dịch tiếng Việt:
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?

(Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993)

Không có nhận xét nào: